Chi tiết - Sở Nông nghiệp và PT nông thôn

 

Cây Keo Lai là loại cây dễ trồng, dễ chăm sóc, tốc độ sinh trưởng nhanh đem lại lợi nhuận kinh tế nên được nhiều người dân ưa trồng. Tuy nhiên khi trồng cây Keo Lai để hướng tới mục tiêu phát triển lâm nghiệp bền vững, hiệu quả cao người dân cũng cần lưu ý một số sâu bệnh hại thường gặp và cách phòng trừ như sau:

*Các sâu bệnh hại thường gặp:

  1. Sâu Kèn Nhỏ :
  •  Sâu kèn gây hại làm lá bị những đốm khô và thủng, mất khả năng quang hợp, cây trở nên còi cọc, kém phát triển. Sâu non tuổi 1 đến tuổi 3 chỉ ăn lớp biểu bì của lá, các tuổi sau ăn lá thành các lỗ hoặc ăn hết lá chỉ để lại gân lá. Mật độ sâu lên đến hàng vạn con trên cây.
  1. Sâu nâu vạch xám:
  • Sâu nâu vạch xám qua đông ở pha nhộng, nằm trong đất, cuối mùa xuân vũ hoá. Sâu nâu vạch xám ăn hại rừng keo từ 2-8 tuổi nhưng tập trung nhiều ở rừng từ 4¸8 tuổi. Sâu ăn lá làm giảm tăng trưởng của rừng
  1. Bệnh Bồ Hóng:
  • Là bệnh gây hại cho lá, khiến lá không quang hợp được. Bệnh thường phát triển trong điều kiện có độ ẩm lớn.
  1. Mối:

- Là một trong những côn trùng gây hại nguy hiểm nhất ở rừng, chia làm 2 loại: Mối có sinh sản gồm mối chúa, mối vua, mối giống và mối không sinh sản gồm mối lính, mối thợ chúng sống thành từng tổ đông tới hàng vạn con.

  - Đặc điểm gây hại: Ở rừng cây mới trồng dưới 1 tháng tuổi, mối cắn gốc thân và rễ. Ở rừng cây lớn, mối cắn rễ và vỏ thân tạo những đường hầm xung quanh thân làm cây héo, chết.

- Mối thường gây hại trên rừng mới trồng thay thế rừng nghèo kiệt. Mối chủ yếu gây hại trên rừng trồng bằng cây con gieo ở vườn ươm. Chúng ít gây hại trên rừng trồng tái sinh hạt.

- Tỷ lệ gây hại trung bình khoảng 20 - 30%, có nơi lên đến 70%.

5. Bệnh phấn trắng lá keo:

- Do nấm Oidium sp gây ra. Nấm bệnh mọc trên bề mặt lá non, chồi non để hút dinh dưỡng làm cho lá xoăn lại, màu nâu vàng, khô chết, nhưng lá không rụng.

- Bệnh bắt đầu phát sinh vào tháng 11, nặng nhất là tháng 3 - 4. Trong điều kiện thích nghi và thời tiết âm u bệnh rất dễ lây lan thành dịch.

- Sợi nấm có thể qua đông trên đốm vàng của lá già để năm sau xâm nhiễm lá mới.

6. Bệnh thán thư (đốm than):

- Do nấm Colletotrichum gloeosporioi gây ra. Bệnh phát sinh gây hại trên lá, chủ yếu ở đầu ngọn lá và mép lá.

- Lúc đầu lá mất màu rồi lan rộng dần vào phiến lá, vết bệnh có thể làm khô đến nửa lá. Vết bệnh màu nâu xám hoặc nâu đen, trên bề mặt vết bệnh có các đốm, chấm đen nhỏ, lúc trời ẩm có thể thấy nhiều bộ màu hồng.

- Trên cành non vết bệnh lõm xuống, chung quanh có viền đen và giữa vết bệnh có các chấm đen nhỏ.

- Bệnh gây hại cây keo ở vườn ươm và rừng trồng, làm cây sinh trưởng chậm. Bệnh phát triển mạnh vào tháng 3 - 5, tháng 6 giảm dần.

7. Bệnh đen thân:

- Do nấm Macrophomina phaseolina Tassi gây ra. Ban đầu gốc biến thành màu nâu, lá mất màu xanh, bệnh phát triển dần lên ngọn làm lá khô héo rũ xuống phần vỏ thân co ngót, tầng trong vỏ thối đen, xốp hoặc dạng bột.

- Trong đó mọc nhiều hạch nấm màu đen. Nấm bệnh có thể xâm nhiễm vào phần gỗ, phần tủy gỗ biến thành màu nâu đen và lan dần đến phần rễ cây, nhổ cây lên chỉ còn lại phần gỗ.

- Trong mùa nắng nóng, nhiệt độ mặt đất lên cao, phần gốc cây bị tổn thương tạo điều kiện cho bệnh xâm nhập gây hại.

- Ở những khu vực tích tụ nhiều nước, tỷ lệ cây bệnh càng tăng lên rõ rệt. Sau thời tiết mưa phùn 10 - 15 ngày bệnh bắt đầu phát sinh. Về sau tăng dần đến tháng 10. Nặng nhất là các tháng 6, 7, 8.

8. Bệnh nấm hồng:

- Do nấm Corticium salmonicolor Berk & Br gây ra ở những vùng có lượng mưa cao.

- Bệnh thường xuất hiện vào đầu mùa mưa, dấu hiệu đầu tiên bằng mắt thường cũng dễ dàng nhận thấy có những đám màu trắng xuất hiện trên bề mặt vỏ thân cây hay cành cây ở phía bị che bóng thường ở vị trí từ 1/5 đến 1/4 chiều cao của cây tính từ ngọn.

- Đến cuối mùa mưa, lớp màu hồng da cam này nhạt dần màu trở nên màu trắng bẩn, vỏ cây bị nứt ra, để lộ một phần gỗ, sợi nấm xâm nhiễm vào thân, cành cây cũng như toàn bộ lá của của cây từ chỗ bị nấm xâm nhiễm lên đến ngọn bị héo, chết có màu nâu và không rụng ngay.

- Đỉnh ngọn cây bị chết, đổ gẫy, từ chỗ gốc, cây mọc chồi mới. Trường hợp nặng toàn bộ cây bị chết.

* Biện pháp phòng trừ sâu bệnh hại :

 Từ kết quả được rút ra từ thực nghiệm được triển khai đưa ra những khuyến cáo về cách phòng trừ các sâu bệnh hại trên cây Keo Lai như sau:

1. Biện pháp vật lý cơ giới

+ Bẫy dính: Sâu non của sâu nâu vạch xám có tập tính di chuyển theo thân cây qua lại giữa nơi cư trú vào ban ngày và nơi lấy thức ăn vào ban đêm nên có thể sử dụng biện pháp ngăn chặn sâu bằng vòng dính. Sử dụng keo dính chuột làm vòng dính. Để vòng dính phát huy hiệu quả keo phải được bôi kín toàn bộ vùng thân cây cách mặt đất 1,3m với bề rộng 8-10cm.

+ Bắt giết thủ công: Khi các loại sâu có nguy cơ phát dịch, mật độ tăng cao ở giai đoạn tuổi nhỏ (dưới 4 năm tuổi), có thể huy động nhân lực tham gia vào việc bắt giết các ổ trứng, kén sâu, ngắt bỏ các cành lá bị bệnh nặng đem đốt trong quá trình chăm sóc cây.

+ Đánh bả độc, mồi nhử: Sử dụng (cám rang + rau xanh băm nhỏ) 4 phần + thuốc sâu 1 phần để đánh bả dế và sâu xám vào ban đêm.

2. Biện pháp sinh học

- Bảo vệ các loài thiên địch sẵn có trên vườn keo của sâu nâu vạch xám, sâu kèn, sâu gấp mép lá bằng cách hạn chế sử dụng thuốc hóa học, tăng cường sử dụng các chế phẩm sinh họcbảo vệ tầng cây bụi thảm tươi để có nơi cho thiên địch trú ngụ.

+ Sâu nâu vạch xám: Có nhiều thiên địch như côn trùng ăn thịt thuộc bộ bọ ngựa, họ kiến, động vật ăn sâu bọ như bò sát, lưỡng cư, côn trùng ký sinh như ong kén cánh tím , ong kén nâu vàng, ruồi ký sinh. Trong số các loài thiên địch kể trên kiến, ong kén cánh tím và ruồi ký sinh có vai  trò rất quan trọng trong việc kiểm soát sâu xám. Ong kén cánh tím làm cho sâu non chết hàng loạt, kén của loài ong này có thể đính bám trên thân hay lá cây. Ruồi ký sinh gây bệnh chết cho sâu non tuổi lớn và nhộng.

+ Sâu kèn: Bảo vệ các loài thiên địch như: ong, nhện, kiến đen, kiến vống đỏ có thể ăn thịt sâu non sâu kèn. Một số loài nhện kết màng cũng có thể bắt các tổ túi sâu, rất có hiệu quả trong việc làm giảm số lượng sâu ngài túi nhỏ. Vì vậy ở những khu vực có tổ kiến thường không cần phun thuốc hoá học để bảo vệ kiến

- Sử dụng các chế phẩm sinh học để phòng trừ mối

+ Trước khi đem trồng pha trộn chế phẩm sinh học với đất bột hoặc phân vi sinh, phân hữu cơ bón cho 500m2 đất. Rắc đều thuốc xuống hố và trên mặt hố trước khi trồng cây rồi lấp đất.

+ Hoặc trước khi đem trồng dùng mồi nhử mối đến Mỗi ha có thể đào 5 - 7 hố, sâu khoảng 60 cm, đường kính rộng 60 cm. Cho cành, nhánh, lá mối thích ăn xuống, lấp nhẹ đất, tưới nước nhử mối (bả mía, cỏ, cành khô lá rụng…), khi mối đến phun chế phẩm sinh học vào mối, cho mối dính thuốc chạy về tổ, sau đó xếp hộp mồi nhử lại đúng vị trí cũ, 5-7 ngày sau khi mối rút hết về tổ thì dọn bỏ hộp.

+ Thường xuyên vệ sinh, chặt tỉa bớt cành nhánh tạo độ thông thoáng; tránh trồng xen các loài cây mẫn cảm với mối như bạch đàn, thông, tre, luồng…

+ Khi phát hiện ra tổ có thể phá vỡ tổ mối, đường nối giữa tổ và nơi mối gây hại bằng cách rắc thuốc Thiodan 355, có thể hạn chế mối phá hại được rừng keo trong thời gian 6 - 9 tháng.

  • Đối với cây Keo Lai bệnh do nấm gây ra thì khi bệnh được phát hiện sớm, việc phòng trừ bệnh cũng đạt được hiệu quả cao bằng việc chọn đúng thuốc diệt nấm. Sử dụng dung dịch Bordeaux có thành phần và tỷ lệ CuSO4: CaO: H2O = 1:2:10 rất có hiệu quả khi phòng trừ bệnh nấm hồng.

- Tuy nhiên việc phòng trừ các loại sâu bệnh hại cho các cây rừng thường có chi phí lớn. Một số giải pháp sau đây có thể được áp dụng:

+ Khơi thông mương rãnh nhằm hạn chế rừng trồng keo bị úng ngập sau những cơn mưa lớn là điều kiện thuận lợi cho nấm bệnh phát sinh, phát triển, lây lan và gây hại.

+ Điều tra thường xuyên, phát hiện sớm các triệu chứng của bệnh. Khi bệnh mới xuất hiện, tỷ lệ bị bệnh còn ít, sử dụng thuốc Bordeaux nồng độ 1% phun hoặc quét lên các vết bị bệnh.

+ Chặt bỏ toàn bộ cây bị chết hoặc nhiễm bệnh nặng đưa ra khỏi rừng để tiêu diệt nguồn xâm nhiễm.

+ Không trồng các dòng quá mẫn cảm với bệnh gần các lô trồng keo.

+ Chiến lược lâu dài, phát triển lâm nghiệp bền vững và mang lại hiệu quả kinh tế cao là tuyển chọn các dòng, xuất xứ có khả năng kháng bệnh trồng trên các lập địa có nguy cơ mắc bệnh cao, đặc biệt những vùng có lượng mưa trên 2.000 mm/năm.

Lê Minh Tuấn  - Trạm KN Gio Linh

Đang truy cập: 6

Hôm nay: 16

Tổng lượt truy cập: 3.594.572